Pháp luật Việt Nam không định nghĩa phân phối cũng như không có định nghĩa về nhà phân phối. Điều này có thể tạo ra sự nhầm lẫn giữa hình thức bán hàng thông qua phân phối và nhượng quyền thương mại. Khi các yếu tố khác nhau được thêm vào hoặc có thay đổi, một hình thức phân phối bán hàng đơn giản có vẻ ngày càng giống nhượng quyền thương mại. Một điều rõ ràng là ít nhất ở Việt Nam, một số đặc điểm nhất định của nhượng quyền thương mại đã xuất hiện trong các hình thức phân phối bán hàng. Hai hình thức bán hàng này bắt đầu khó phân biệt được nếu nhìn từ bên ngoài. Trên thực tế, ngày càng có nhiều cửa hàng bán lẻ trông giống như nhượng quyền thương mại một cách có chủ ý với diện mạo đồng nhất hơn, thay vì mô hình bán lẻ độc lập truyền thống. Vì vậy, bạn có thể hỏi: Vậy thì có khác gì? Những yếu tố không rõ ràng, khi hiện hữu, sẽ làm mờ ranh giới giữa hai hình thức bán hàng và đặt ra câu hỏi khi áp dụng các quy định pháp luật.
Chúng ta sẽ thảo luận về hai khái niệm này, và sau đó xem xét sự tương đồng và khác biệt giữa chúng.
Phân phối là gì?
Chúng ta bắt đầu với thực tế là không có định nghĩa pháp lý về phân phối. Bộ luật Thương mại coi ‘phân phối’ chỉ đơn thuần là mỗi quan hệ mua bán hàng hóa[1]. Nghĩa là, quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ một bên (nhà sản xuất/nhà bán buôn) sang bên khác (nhà phân phối bán lẻ) tại thời điểm giao hàng trừ khi có thỏa thuận khác. Đó là, nhà phân phối bán lại hàng hóa mà họ sở hữu cho người mua và theo các điều khoản của riêng mình. Trên thực tế, phân phối có thể có nhiều sắc thái hơn. Nhà phân phối có thể sẽ bán lại hàng hóa, đôi khi theo các điều khoản và điều kiện do người bán áp đặt, nhưng giao dịch cơ bản không thay đổi.
Nhượng quyền thương mại là gì?
Bộ luật Thương mại cũng quy định về nhượng quyền thương mại. Các quy tắc được quy định rất chi tiết. Nhượng quyền thương mại được định nghĩa là hoạt động thương mại theo đó bên nhượng quyền thương mại cho phép và yêu cầu bên nhận quyền thương mại tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, tuân theo các điều kiện sau:
- Việc mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền thương mại quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền thương mại bên nhượng quyền thương mại bên nhượng quyền thương mại; và
- Bên nhượng quyền thương mại có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền thương mại trong việc điều hành công việc kinh doanh.[2]
Sự khác biệt là gì?
- Bề ngoài:
Hai hình thức bán hàng này ở Việt Nam không thuần túy. Có sự tương đồng giữa hai hình thức và có các yếu tố của hình thức này trong hình thức kia. Theo định nghĩa, việc kiểm soát trong việc điều hành công việc kinh doanh là một trong những đặc điểm chính của nhượng quyền thương mại. Kiểm soát giúp đảm bảo tính đồng nhất, nhất quán, hiệu quả và chất lượng trên tất cả các địa điểm nhượng quyền. Đối với bên nhượng quyền thương mại, điều này rất quan trọng để duy trì tính nhất quán, danh tiếng, niềm tin của khách hàng và bản sắc thương hiệu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là mọi mức độ kiểm soát đều cấu thành mối quan hệ nhượng quyền bên nhận quyền thương mại. Kiểm soát có thể được tìm thấy trong các thỏa thuận bán lẻ được ủy quyền tương tự. Ví dụ: trong trường hợp đại lý/nhà cung cấp dịch vụ được ủy quyền của Apple và trong các trường hợp tương tự khác, có các tiêu chuẩn kinh doanh do người bán quy định mà nhà phân phối phải tuân theo, bao gồm vị trí, cách bố trí cửa hàng, sự phù hợp chung về ngoại hình, đào tạo nhân viên, v.v. Nhưng việc hình thức nhượng quyền thương mại cũng có những yêu cầu này–và thường là mạnh mẽ hơn–không khiến mối quan hệ bán buôn-nhà bán lẻ hoặc nhà sản xuất-nhà phân phối trở thành mối quan hệ nhượng quyền thương mại. Có thể có những tranh cãi về mức độ kiểm soát khác nhau giữa hình thức nhượng quyền thương mại và hình thức phân phối bán hàng. Nhưng mức độ kiểm soát không liên quan khi phân biệt hình thức phân phối bán hàng và nhượng quyền thương mại. Bởi lẽ, mức độ kiểm soát là một biến số không được pháp luật quy định cụ thể, và phụ thuộc hoàn toàn vào thỏa thuận của các bên. Không có tiêu chí pháp lý nào được quy định trong Bộ luật Thương mại mà theo đó một hình thức phân phối bán hàng sẽ chuyển đổi thành nhượng quyền thương mại. Việc thiếu quy định cụ thể có thể làm tăng thêm sự phức tạp và nhầm lẫn của việc phân biệt hai hình thức này.
- Kiểm soát hoạt động kinh doanh:
Có sự khác biệt rõ rệt trong cách hai hình thức bán hàng thực hiện việc kiểm soát điều hành công việc kinh doanh. Thứ nhất, quyền thực hiện quyền kiểm soát bên nhượng quyền thương mại là quyền vốn có của của bên nhượng quyền thương mại trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại. Kiểm soát hoạt động kinh doanh trong các thỏa thuận phân phối thường tập trung vào việc duy trì tính toàn vẹn của hình ảnh thương hiệu. Có thể có các yêu cầu về trưng bày sản phẩm, kiểm soát các mẫu sản phẩm có thể được bán, tuổi tồn kho, v.v. Việc kiểm soát trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại thông thường cũng bao gồm những điều này, nhưng thường đi xa hơn nữa để bảo vệ bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền thương mại (bên cạnh những yếu tố khác), theo đó bên nhận quyền thương mại phải áp dụng và thực hiện những bí quyết kinh doanh này một cách thích hợp. Đây có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất của một thỏa thuận nhượng quyền thương mại. Ngược lại, các thỏa thuận phân phối bán hàng thông thường không liên quan đến việc cấp quyền tiếp cận hoặc áp dụng bí quyết kinh doanh độc quyền, nhưng ngay cả khi có xảy ra, thì việc tiếp cận này cũng không phải là then chốt đối với hình thức phân phối bán hàng.
- Trách nhiệm:
Trách nhiệm pháp lý theo hai mô hình cũng có sự tương phản. Trong một thỏa thuận phân phối, nhà sản xuất thường chịu trách nhiệm chính về chất lượng và sự an toàn của sản phẩm của mình. Điều đó có nghĩa là, nếu một sản phẩm bị lỗi đến tay người tiêu dùng, nhà sản xuất có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý về các thiệt hại. Ngược lại, bên nhượng quyền thương mại không chịu trách nhiệm về sản phẩm hoặc dịch vụ của bên nhận quyền thương mại. Thay vào đó, bên nhận quyền thương mại, với tư cách là một pháp nhân kinh doanh độc lập, hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng, an toàn và tuân thủ pháp luật của các sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ bán.
- Cấu trúc thanh toán:
Một điểm khác biệt chính khác giữa hai mô hình là cấu trúc thanh toán. Trong hình thức phân phối bán hàng, nhà phân phối thanh toán giá mua cho người bán/nhà sản xuất trong một giao dịch “mua đứt bán đoạn”. Đây là nguồn doanh thu chính cho người bán/nhà sản xuất. Thông thường, sẽ không không có thêm khoản thanh toán hoặc phí hoa hồng náo khác được thanh toán cho việc sử dụng tên thương hiệu, nhãn hiệu, v.v.. Điều này đúng ngay cả trong trường hợp số lượng nhà phân phối trong một khu vực chỉ định bị giới hạn bởi nhà sản xuất. Trong khi đó, cấu trúc thanh toán phí nhượng quyền thương mại là một yếu tố nội tại của hoạt động nhượng quyền thương mại với trọng tâm chính là bán “một gói quyền” (bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, và quảng cáo của bên nhượng quyền thương mại), chứ không phải bản thân hàng hóa. Thật vậy, thông thường sẽ không có hàng hóa nào được cung cấp trực tiếp bởi bên nhượng quyền thương mại, mà thường được sản xuất bởi bên nhận quyền thương mại. Sự khác biệt này được khẳng định thêm bởi nhiều điều khoản trong Bộ luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn của nó. Cụ thể, Bộ luật Thương mại quy định bên nhượng quyền thương mại được hưởng phí nhượng quyền thương mại từ bên nhận quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại có nghĩa vụ trả phí nhượng quyền cho bên nhượng quyền thương mại[3]. Ngoài ra, “giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán” là các điều khoản được đề xuất trong thỏa thuận nhượng quyền thương mại[4]. Hơn nữa, bên nhượng quyền thương mại được yêu cầu công bố (trong Bản giới thiệu về Nhượng quyền thương mại (“FDD”) nộp cho các cơ quan có thẩm quyền) thông tin về (i) chi phí ban đầu mà bên nhận quyền thương mại phải trả (bao gồm loại và mức phí ban đầu, thời điểm trả phí, các trường hợp phí sẽ được hoàn trả) và (ii) các nghĩa vụ tài chính khác của bên nhận quyền thương mại. Các nghĩa vụ tài chính khác bao gồm các loại phí thu định kỳ, phí quảng cáo, phí đào tạo, phí dịch vụ, thanh toán tiền thuê, v.v.[5]
- Đăng ký/Cấp phép:
Do những khác biệt nêu trên, hai mô hình được điều chỉnh bởi các quy định pháp lý khác nhau. Hình thức phân phối bán hàng tuân theo các quy định ít nghiêm ngặt hơn so với các quy định về nhượng quyền thương mại. Thỏa thuận phân phối có thể được ký kết và thực hiện giữa người bán/nhà sản xuất và nhà phân phối mà không cần bị giám sát nghiêm ngặt theo quy định. Tuy nhiên, đối với nhượng quyền thương mại, pháp luật Việt Nam áp đặt gánh nặng hành chính đáng kể đối với bên nhượng quyền thương mại khi thiết lập nhượng quyền thương mại tại Việt Nam. Bên nhượng quyền thương mại phải nộp hồ sơ (bao gồm: Bản giới thiệu về Nhượng quyền thương mại nêu chi tiết về rủi ro tài chính, phí và điều khoản hoạt động cho bên nhận quyền thương mại tiềm năng) cho Bộ Công Thương (“Bộ Công Thương“) để đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam[6] mà đăng ký phải được phê duyệt.
Bên nhượng quyền thương mại phải hoạt động kinh doanh ít nhất một năm trước khi nhượng quyền tại Việt Nam.
- Nghĩa vụ công bố thông tin:
Theo luật, bên nhượng quyền thương mại phải tuân theo một số quy định về công bố thông tin và báo cáo nhất định. Bên nhượng quyền thương mại phải công bố các thông tin thương mại quan trọng thông qua FDD. Bên nhượng quyền thương mại phải cung cấp một bản sao của thỏa thuận nhượng quyền thương mại ít nhất 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng trừ khi các bên có thỏa thuận khác[7]). Bên cạnh yêu cầu công bố thông tin ban đầu được quy định trong FDD, bên nhượng quyền thương mại phải cập nhật cho các bên nhận quyền thương mại của mình về tất cả những thay đổi quan trọng liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại của mình. “Thay đổi đáng kể” được định nghĩa là bất kỳ thay đổi nào có thể có tác động đến hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền thương mại. Tất cả những điều này để nói rằng luật pháp cung cấp cho bên nhận quyền thương mại nhiều biện pháp bảo vệ, mà những biện pháp này bị bỏ qua trong mối quan hệ phân phối bán hàng.
Ngoài ra, bên nhượng quyền thương mại phải báo cáo với Bộ Công Thương trong trường hợp có một số thay đổi nhất định (ví dụ: thông tin về bên nhượng quyền thương mại, phạm vi/loại hình kinh doanh được nhượng quyền, v.v.), trong vòng 30 ngày kể từ ngày thay đổi. Ngược lại, nhà phân phối bán hàng không phải chịu nghĩa vụ như vậy.
Kết luận
Để không gây nhầm lẫn hoặc nhận thức sai lầm về mối quan hệ kinh doanh giữa các bên, có thể cấu trúc một mối quan hệ phân phối bán hàng với mức độ kiểm soát thích hợp, nhưng phải tránh xa việc kiểm soát bí quyết kinh doanh một cách chặt chẽ thường được áp dụng bởi hình thức nhượng quyền thương mại. Quan trọng hơn, nên tránh sử dụng cấu trúc thanh toán đặc trưng của hình thức nhượng quyền thương mại (ví dụ: phí nhượng quyền định kỳ, phí bản quyền, v.v.) để không vướng phải bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào được quy định đối với việc đăng ký nhượng quyền thương mại.
[1] Các quy định về mua bán hàng hóa và dịch vụ được quy định tại Điều 24–87 của Bộ luật Thương mại.
[2] Điều 284 Bộ luật Thương mại.
[3] Điều 286 và Điều 289 của Bộ luật Thương mại.
[4] Điều 11 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ hướng dẫn Luật Thương mại về nhượng quyền thương mại (được sửa đổi bởi Nghị định số 120/2011/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2011) (“Nghị định 35“).
[5] Phụ lục III Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Bộ Thương mại về đăng ký nhượng quyền thương mại (“Thông tư 09“).
[6] Mục II Thông tư 09
[7] Điều 8 Nghị định 35