Tác Động của “FATCA”, Một Đạo Luật của Hoa Kỳ, Đến Các Nhà Quản Lý Quỹ của Việt Nam

May 5th, 2025
| |
Tax

Dẫn nhập

Liệu một tổ chức Việt Nam hoạt động hoàn toàn tại Việt Nam có thể phải có nghĩa vụ và chịu chế tài về thuế theo quy định của Hoa Kỳ không? Câu trả lời là có. Các tổ chức chịu sự tác động bao gồm các công ty chứng khoán, quỹ hoán đổi danh mục, công ty quản lý quỹ và ngân hàng thương mại, bên cạnh các tổ chức khác.

Đạo Luật Tuân Thủ Thuế Đối Với Tài Khoản Nước Ngoài (“FATCA”) được thông qua vào năm 2010 nhằm ngăn chặn hành vi trốn thuế của người nộp thuế và các tổ chức Hoa Kỳ thông qua việc chuyển tiền và đầu tư qua các tổ chức tài chính nước ngoài (“TCTC Nước Ngoài”). FATCA yêu cầu các TCTC Nước Ngoài cung cấp thông tin tài khoản của các cá nhân, tổ chức Hoa Kỳ và các pháp nhân nước ngoài khác do cá nhân Hoa Kỳ kiểm soát cho Cơ Quan Thuế Vụ Hoa Kỳ (“IRS”).

Các TCTC Nước Ngoài phải báo cáo theo quy định của FATCA bao gồm: (a) các tổ chức nhận tiền gửi;[1] (b) các tổ chức lưu ký;[2] (c) các tổ chức đầu tư;[3] và thậm chí (d) một số loại hình công ty bảo hiểm có sản phẩm tích lũy giá trị tiền mặt hoặc niên khoản. Các quỹ hưu trí được thành lập tại Việt Nam, trong một số trường hợp, phải báo cáo thông tin về chủ tài khoản là công dân hoặc pháp nhân Hoa Kỳ, trừ khi họ là các tổ chức tài chính nước ngoài được miễn báo cáo theo FATCA.

Để yêu cầu các TCTC Nước Ngoài được thành lập hoặc có chi nhánh tại quốc gia khác như Việt Nam báo cáo các tài khoản nước ngoài do người nộp thuế hoặc pháp nhân Hoa Kỳ nắm giữ, Hoa Kỳ đã ký kết các hiệp định liên chính phủ về việc thực hiện báo cáo theo FATCA (“IGA”) với 112 quốc gia, bao gồm Việt Nam. Trong số 112 quốc gia này, 98 quốc gia (bao gồm Việt Nam) đã thỏa thuận IGA Mô Hình 1, và 14 quốc gia thỏa thuận IGA Mô Hình 2.

IGA Mô Hình 1 giữa Hoa Kỳ và Việt Nam

Theo IGA Mô Hình 1 như của Việt Nam, dữ liệu tài chính về công dân hoặc tổ chức Hoa Kỳ có tài khoản nước ngoài vượt quá 50.000 USD được các TCTC Nước Ngoài của quốc gia đối tác thu thập và thường được gửi đến cơ quan thuế của quốc gia đó. Nhưng tại Việt Nam, các TCTC Nước Ngoài phải gửi thông tin đến Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (“NHNN”). Sau đó, NHNN chuyển thông tin này cho IRS. IRS sử dụng thông tin để xác định xem người nộp thuế Hoa Kỳ đã và đang nộp đủ thuế Hoa Kỳ hay chưa. Có 98 quốc gia đã đồng ý với báo cáo theo Mô Hình 1. Trong khi đó, theo IGA Mô Hình 2, cơ quan thuế của chính phủ nước ngoài không tham gia vào các hoạt động báo cáo, và các TCTC Nước Ngoài báo cáo trực tiếp toàn bộ chủ tài khoản Hoa Kỳ cho IRS thông qua trang thông tin điện tử của IRS. Tổng cộng 14 quốc gia đã ký IGA Mô Hình 2 với Hoa Kỳ.[4]

Vào năm 2016, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký kết IGA song phương đối với hoạt động báo cáo theo FATCA theo Mô Hình 1B. Theo IGA Mô Hình 1B, các tổ chức tài chính của Việt Nam phải thực hiện thẩm định đối với các chủ tài khoản của mình. Nếu thuộc diện TCTC Nước Ngoài có nghĩa vụ báo cáo, các TCTC Nước Ngoài này phải báo cáo về chủ tài khoản là cá nhân và tổ chức Hoa Kỳ có tài khoản trên 50.000 USD cho NHNN.

Theo IGA về FATCA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, tất cả các tổ chức tài chính được thành lập tại Việt Nam hoặc có chi nhánh tại Việt Nam và không được miễn trừ theo Phụ Lục II của IGA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đều phải tuân thủ nghĩa vụ báo cáo theo FATCA. Nói cách khác, trừ khi TCTC Nước Ngoài là một tổ chức được miễn trừ báo cáo, FATCA yêu cầu TCTC Nước Ngoài này phải báo cáo cho NHNN. Các trường hợp miễn trừ báo cáo rất hạn chế, và việc TCTC Nước Ngoài không đáp ứng từng yếu tố của một tổ chức được miễn trừ có nghĩa là TCTC Nước Ngoài đó là một TCTC Nước Ngoài có nghĩa vụ báo cáo theo cả FATCA và IGA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

TCTC Nước Ngoài có thể xác định liệu mình có phải là TCTC Nước Ngoài có nghĩa vụ báo cáo theo IGA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bằng cách nào?

Để xác định xem mình có được miễn báo cáo hay không, một TCTC Nước Ngoài phải tham khảo Đạo Luật Hoa Kỳ ban hành FATCA cũng như IGA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Tất cả các báo cáo mà Việt Nam gửi đến Bộ Tài Chính Hoa Kỳ và IRS sẽ được thực hiện bởi NHNN. NHNN có thẩm quyền đưa ra quyết định cuối cùng về việc liệu một TCTC Nước Ngoài hoạt động tại Việt Nam có phải là tổ chức có nghĩa vụ báo cáo hay được miễn báo cáo theo IGA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Để xác định liệu một chủ tài khoản có phải là cá nhân hoặc tổ chức Hoa Kỳ, hoặc có đủ mối liên kết để được xem là chủ tài khoản Hoa Kỳ hay không, TCTC Nước Ngoài có nghĩa vụ báo cáo cần thu thập thông tin và tài liệu nhằm trả lời bảy câu hỏi sau: (1) chủ tài khoản có phải là công dân hoặc người cư trú tại Hoa Kỳ không; (2) chủ tài khoản có sinh ra tại Hoa Kỳ không; (3) chủ tài khoản có địa chỉ tại Hoa Kỳ, bao gồm cả hộp thư bưu điện, không; (4) chủ tài khoản có số điện thoại Hoa Kỳ không; (5) có chỉ dẫn thanh toán định kỳ nào được chuyển đến địa chỉ tại Hoa Kỳ hoặc vào tài khoản được duy trì tại Hoa Kỳ không; (6) có văn bản ủy quyền hoặc thẩm quyền ký kết đang có hiệu lực được cấp cho một chủ thể có địa chỉ tại Hoa Kỳ không; và (7) chủ tài khoản có địa chỉ “chuyển tiếp thư” hoặc địa chỉ nhận giữ thư hộ là địa chỉ duy nhất cho chủ tài khoản không.

Khi NHNN xác định rằng TCTC Nước Ngoài hoạt động tại Việt Nam là một TCTC Nước Ngoài có nghĩa vụ báo cáo, TCTC Nước Ngoài đó phải thu thập hoặc xác minh thêm thông tin từ chủ tài khoản Hoa Kỳ thông qua Mẫu FATCA 01a hoặc Mẫu FATCA 02a. Ngoài ra, các biểu mẫu khác liên quan đến cá nhân Hoa Kỳ hoặc cá nhân có thể liên quan đến Hoa Kỳ bao gồm: (a) W-9; (b) W-8BEN; và (c) W-8BEN-E.

Nếu TCTC Nước Ngoài hoạt động tại Việt Nam là một TCTC Nước Ngoài có nghĩa vụ báo cáo nhưng đã không báo cáo thông tin về chủ tài khoản Hoa Kỳ của mình cho NHNN, NHNN có quyền áp dụng các biện pháp chế tài và các hình thức phạt đối với TCTC Nước Ngoài đó.

Bộ Tài Chính Hoa Kỳ và/hoặc IRS có thể phát hiện việc một TCTC Nước Ngoài vi phạm các quy định của FATCA bằng những cách nào?

Hệ thống này tuy không hoàn hảo, nhưng một số biện pháp kiểm tra chéo cơ bản vẫn có thể được thực hiện. Vì FATCA là một đạo luật quy định nghĩa vụ báo cáo kép, nên cả người nộp thuế Hoa Kỳ (bao gồm cả các pháp nhân Hoa Kỳ) và TCTC Nước Ngoài đều có trách nhiệm báo cáo. Cụ thể, người nộp thuế Hoa Kỳ (bao gồm cả các pháp nhân Hoa Kỳ) phải báo cáo về việc nắm giữ tài khoản tại một TCTC Nước Ngoài hoạt động tại Việt Nam, và TCTC Nước Ngoài phải báo cáo về các tài khoản của người nộp thuế Hoa Kỳ có tại tổ chức của mình, trong năm hiện tại hoặc cả các năm trước đó. Nếu người nộp thuế Hoa Kỳ có khai báo về việc mình nắm giữ tài khoản tại một TCTC Nước Ngoài, nhưng TCTC Nước Ngoài đó không thực hiện nghĩa vụ báo cáo tương ứng với IRS, thì IRS sẽ biết được rằng TCTC Nước Ngoài đã vi phạm nghĩa vụ báo cáo theo quy định của FATCA. Tương tự, nếu TCTC Nước Ngoài có báo cáo về tài khoản do người nộp thuế Hoa Kỳ nắm giữ, nhưng người nộp thuế Hoa Kỳ đó không báo cáo về tài khoản nước ngoài của mình, IRS sẽ biết rằng người nộp thuế Hoa Kỳ đã không báo cáo về sự tồn tại của tài khoản nước ngoài của mình.

Chế tài có thể được áp dụng đối với TCTC Nước Ngoài do không thực hiện báo cáo theo FATCA

Hoa Kỳ có thể áp dụng thuế khấu trừ tại nguồn với mức thuế 30% đối với các khoản thanh toán và lợi nhuận có được tại Hoa Kỳ đối với các TCTC Nước Ngoài không tuân thủ quy định của FATCA. Các khoản thanh toán bị khấu trừ bao gồm tiền lãi, cổ tức, cũng như các khoản thu nhập cố định hoặc thường niên hoặc định kỳ mà có thể xác định được từ nguồn tại Hoa Kỳ. Nghiêm trọng hơn, Hoa Kỳ có thể áp dụng biện pháp hạn chế quyền tiếp cận của TCTC Nước Ngoài đối với thị trường tài chính Hoa Kỳ. Điều này có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh doanh và khả năng thực hiện các giao dịch tài chính với các pháp nhân Hoa Kỳ của TCTC Nước Ngoài đó. Ngoài ra, TCTC Nước Ngoài không tuân thủ quy định của FATCA cũng có thể phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn từ các cơ quan quản lý của Hoa Kỳ đối với các hoạt động trong tương lai của TCTC Nước Ngoài đó. TCTC Nước Ngoài không tuân thủ quy định của FATCA còn có thể đối mặt với rủi ro về thiệt hại về uy tín của chính TCTC Nước Ngoài đó.

Chế tài có thể được áp dụng đối với người nộp thuế Hoa Kỳ không khai báo tài khoản tài chính nước ngoài

Nếu người nộp thuế Hoa Kỳ không nộp Mẫu 8938 (Báo Cáo Về Các Tài Sản Tài Chính Nước Ngoài Cụ Thể) kèm theo hồ sơ khai thuế thu nhập cá nhân, họ có thể bị xử phạt với mức phạt lên tới 10.000 USD. Trong trường hợp việc không nộp Mẫu 8938 tiếp tục kéo dài quá 90 ngày kể từ ngày IRS ban hành thông báo yêu cầu tuân thủ, một khoản phạt bổ sung có thể được áp dụng, với mức tối đa lên tới 50.000 USD.

Trường hợp người nộp thuế Hoa Kỳ cố ý vi phạm quy định của FATCA với mục đích trốn thuế, họ có thể bị áp dụng các khoản phạt về hành vi gian lận thuế. Cụ thể, mức phạt có thể lên tới 75% số thuế chưa nộp.

Kết luận

Nhằm ngăn chặn hành vi trốn thuế của người nộp thuế và doanh nghiệp Hoa Kỳ, Quốc Hội Hoa Kỳ đã ban hành FATCA vào năm 2010. Theo quy định của FATCA, mọi người nộp thuế Hoa Kỳ sở hữu tài khoản tài chính tại nước ngoài đều có nghĩa vụ khai báo về sự tồn tại của các tài khoản này với Sở Thuế Vụ Hoa Kỳ (IRS). Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả giám sát và ngăn ngừa hành vi che giấu tài sản tài chính ở nước ngoài, Hoa Kỳ đã ký kết các hiệp định liên chính phủ song phương với nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam để bảo đảm các tổ chức tài chính nước ngoài (TCTC Nước Ngoài) được thành lập tại nước ngoài có trách nhiệm báo cáo thông tin liên quan đến các tài khoản nước ngoài do người nộp thuế Hoa Kỳ đứng tên. Tại Việt Nam, TCTC Nước Ngoài có thể thuộc một trong hai nhóm: (i) tổ chức có nghĩa vụ báo cáo theo FATCA, hoặc (ii) tổ chức được miễn báo cáo theo quy định tại Phụ Lục II của Hiệp Định Liên Chính Phủ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (IGA Việt Nam – Hoa Kỳ). Để xác định liệu rằng một TCTC Nước Ngoài hoạt động tại Việt Nam có nghĩa vụ báo cáo theo FATCA hay không, TCTC Nước Ngoài đó cần tham chiếu các quy định của FATCA, nội dung IGA giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, và trong một số trường hợp có thể cần tham vấn ý kiến xác định chính thức từ cơ quan báo cáo được chỉ định theo IGA – cụ thể là Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam. Việc không tuân thủ nghĩa vụ báo cáo theo quy định của FATCA có thể dẫn đến các chế tài đối với cả TCTC Nước Ngoài và người nộp thuế Hoa Kỳ có liên quan.

[1] Ngân hàng

[2] Quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí

[3] Quỹ phòng hộ và quỹ đầu tư tư nhân

[4] Trường hợp TCTC Nước Ngoài phải tuân theo IGA Mô Hình 2, TCTC Nước Ngoài đó phải đăng ký và thực hiện báo cáo trực tiếp cho IRS thông qua Cổng Đăng Ký FATCA. Trong trường hợp đó, TCTC Nước Ngoài theo Mô Hình 2 sẽ được IRS cấp Mã Số Nhận Dạng Tổ Chức Trung Gian Toàn Cầu (“GIIN”).

 

Nguyễn Hồng Thái – Washington, DC

Nguyễn Hữu Minh Nhựt – Việt Nam

Sesto E Vecchi – New York

 

→   Bản dịch tiếng Anh

 

Contact Us

Tel: (84-28) 3824-3026