Thuế Đối Với Chuyển Nhượng Vốn Tại Việt Nam: Những Điều Nhà Đầu Tư Singapore Cần Biết

June 6th, 2025
| |
Tax

Nhà đầu tư Singapore khi thoái vốn của mình trong một công ty Việt Nam có các lựa chọn để giảm thiểu thuế.  Điểm thảo luận đầu tiên mà chúng tôi muốn đề cập là thu nhập phát sinh từ  hoạt động chuyển nhượng  vốn được miễn thuế tại Singapore nhưng Việt Nam vẫn đánh thuế đối với các hoạt động này.  Trong một số trường hợp nhất định, nhà đầu tư Singapore cũng có áp dụng Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (HĐTĐTHL) [1] giữa Việt Nam và Singapore để được miễn thuế.

Bài viết này thảo luận về các chính sách thuế chủ yếu ảnh hưởng đến nhà đầu tư Singapore nắm giữ vốn hoặc cổ phần trong các công ty Việt Nam.  Bài viết tập trung thảo luận về  các giao dịch chuyển nhượng  cổ phần và vốn, nhưng không bao gồm các giao dịch chuyển nhượng bất động sản.  Bài viết thảo luận về chính sách thuế đối với giao dịch chuyển nhượng vốn theo luật pháp của Việt Nam và Singapore, khả năng nhà đầu tư Singapore được miễn thuế theo HĐTĐTHL, và các yêu cầu, điều kiện đối với nhà đầu tư Singapore để được hưởng miễn giảm thuế theo HĐTĐTHL.

Chính sách thuế đối với thu nhập phát sinh từ chuyển nhượng vốn tại Việt Nam:  Việt Nam áp thuế đối với thu nhập phát sinh từ các giao dịch chuyển nhượng cổ phần/vốn. Nhà đầu tư là cá nhân và nhà đầu tư là tổ chức sẽ bị đánh thuế theo các mức thuế suất khác nhau và theo các phương pháp khác nhau. Cụ thể, Nhà đầu tư cá nhân mà không phải là đối tượng cư trú của Việt Nam và có thu nhập phát sinh từ việc chuyển nhượng vốn hoặc cổ phần của mình tại một công ty Việt Nam sẽ bị đánh thuế theo mức thuế suất là 0,1% trên số tiền chuyển nhượng.  Cá nhân nước ngoài có thể trở thành người cư trú của Việt Nam (ví dụ: có nhà thường trú tại Việt Nam, có mối quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ với Việt Nam, v.v.). Trong trường hợp nhà đầu tư là cá nhân nước ngoài là đối tượng cư trú của Việt Nam, thì người này sẽ bị đánh thuế theo mức thuế suất 0,1% đối với số tiền chuyển nhượng [trong trường hợp chuyển nhượng cổ phần trong công ty cổ phần (“CTCP”)] hoặc theo mức thuế suất 20% đối với lợi nhuận [trong trường hợp chuyển nhượng vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn (“Công Ty TNHH”)]. Nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài cũng sẽ bị đánh thuế theo các mức thuế suất khác nhau. Mức thuế suất cụ thể sẽ được xác định tùy thuộc vào hình thức doanh nghiệp của công ty mục tiêu. Lợi nhuận từ việc chuyển nhượng vốn tại Công ty TNHH Việt Nam hoặc chuyển nhượng cổ phần tại CTCP không niêm yết của nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài sẽ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo mức thuế suất thông thường là 20% [2] tính trên lợi nhuận. Mặt khác, số tiền chuyển nhượng  mà nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài nhận được từ việc bán cổ phần của mình tại một công ty niêm yết tại Việt Nam sẽ chỉ bị đánh thuế ở mức 0,1% tính trên số tiền chuyển nhượng.

Một lưu ý quan trọng đối với các bên tham gia giao dịch chuyển nhượng cần biết đó là bên nào sẽ có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế theo luật định. Tùy thuộc vào tính chất của giao dịch, nghĩa vụ kê khai và nộp thuế có thể là thuộc công ty mục tiêu hoặc bên mua hoặc công ty chứng khoán thực hiện giao dịch chuyển nhượng.  Nếu bên bán và bên  mua đều là công ty tại nước ngoài, thì các khoản thanh toán phải được chuyển vào tài khoản vốn của công ty mục tiêu và công ty mục tiêu có trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập và nộp tờ khai thuế trước khi chuyển số tiền chuyển nhượng cho bên bán. Nếu bên bán là một công ty tại nước ngoài và nếu bên mua là một công ty trong nước, thì bên mua có trách nhiệm nộp tờ khai thuế thay mặt cho bên bán  và khấu trừ thuế thu nhập trước khi thanh toán số tiền chuyển nhượng cho bên bán sau khi đã khấu trừ thuế. Trường hợp việc chuyển nhượng cổ phần công ty niêm yết được thực hiện thông qua công ty chứng khoán, thì công ty chứng khoán sẽ có nghĩa vụ khấu trừ thuế thu nhập của bên bán.

Chính sách thuế đối thu nhập phát sinh từ chuyển nhượng vốn tại Singapore: Thu nhập từ chuyển nhượng vốn không phải chịu thuế tại Singapore; tuy nhiên, thu nhập từ việc bán  cổ phần, về bản chất, nếu được coi là thu nhập hoặc doanh thu, thì thu nhập hoặc doanh thu đó sẽ bị đánh thuế tại Singapore.  Có nhiều yếu tố khác nhau để xem xét liệu thu nhập từ chuyển nhượng vốn, về bản chất,  có coi là là doanh thu hay thu nhập chịu thuế hay không. Việc xác định theo quy định chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, xét tới bản chất của việc chuyển nhượng cổ phần (ví dụ: ý định sở hữu lâu dài, thời gian sở hữu thực tế, lý do chuyển nhượng , v.v.).  Cụ thể, Mục 13W của Đạo luật Thuế Thu nhập Singapore quy định hai điều kiện để hưởng miễn thuế: (i) giao dịch chuyển nhượng xảy ra trong giai đoạn từ ngày 1 tháng 6 năm 2012 đến ngày 31 tháng 12 năm 2027; (ii) công ty (công ty thoái vốn) luôn sở hữu hợp pháp và nắm giữ ít nhất 20% cổ phần phổ thông trong công ty mục tiêu trong khoảng thời gian liên tục ít nhất là 24 tháng trước khi chuyển nhượng cổ phần. Việc miễn thuế không áp dụng trong một số ít trường hợp[3].  Nếu công ty đầu tư (bên bán) không đáp ứng các điều kiện này sẽ phải chịu thuế thu nhập với mức thuế suất 17%.

Vì thu nhập từ chuyển nhượng vốn không được miễn thuế theo pháp luật Việt Nam, nên việc chuyển nhượng cổ phần hoặc vốn do công ty Singapore nắm giữ tại một công ty Việt Nam sẽ phải chịu thuế tại Việt Nam.  Tuy nhiên, việc chuyển nhượng cổ phần phổ thông do một công ty khác nắm giữ trong chính công ty Singapore đó mà công ty Singapore này lại nắm giữ cổ phần /vốn trong công ty Việt Nam , thì giao dịch chuyển nhượng này sẽ được miễn thuế theo luật pháp Singapore. Về lý thuyết, đây có thể là một giải pháp thay thế để giảm thuế đối với giao dịch chuyển nhượng vốn tại Việt Nam. Có mội vài tiền lệ mà cơ quan thuế Việt Nam đã áp thuế thu nhập đối với giao dịch chuyển nhượng vốn gián tiếp của một công ty nước ngoài trong một công ty nước ngoài khác mà công ty nước ngoài này nắm giữ vốn/ cổ phần trong một công ty Việt Nam, cho một công ty khác có trụ sở tại Việt Nam.  Những tiền lệ này tạo ra rủi ro nhất định về thuế trong các giao dịch chuyển nhượng vốn gián tiếp  trong một công ty Việt Nam thực hiện ở nước ngoài, nếu việc chuyển nhượng liên quan đến bên mua Việt Nam. [4]   

Chính sách thuế đối với thu nhập chuyển nhượng vốn theo HĐTĐTHL:  HĐTĐTHL  không hoàn toàn rõ ràng. Ngôn từ của   HĐTĐTHL  ám chỉ rằng một đối tượng cư trú của Singapore chuyển nhượng vốn của mình trong một công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Nam, hoặc bán cổ phần của mình trong một công ty cổ phần Việt Nam được niêm yết trên một sàn giao dịch chứng khoán ở Việt Nam hoặc ở Singapore, thì sẽ được miễn thuế Việt Nam[5]. Việc miễn trừ thuế không áp dụng cho một công ty chưa niêm yết có “nhiều bất động sản”.

HĐTĐTHL không định nghĩa một công ty khi nào được coi là có “nhiều bất động sản” .  Vấn đề này được hướng dẫn  tại Thông tư 205 của Bộ Tài chính Việt Nam[6].  Thông tư 205 quy định rằng một công ty được coi là có “nhiều bất động sản” theo HĐTĐTHL,  nếu giá trị bất động sản của công ty [7] tại Việt Nam chiếm hơn 50% tổng giá trị tài sản của công ty được ghi nhận trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước. Vì không có miễn trừ cho một công ty có “nhiều bất động sản”, nếu bên bán là nhà đầu tư Singapore chuyển nhượng cổ phần của mình tại công ty không niêm yết của Việt Nam tham gia vào phát triển bất động sản, hoặc chuyển nhượng cổ phần của mình tại công ty Việt Nam mà công ty này dựa vào quyền sử dụng  đất hoặc quyền sở hữu đối với cơ sở vật chất nhà xưởng, sẽ không được hưởng các lợi ích về thuế theo HĐTĐTHL. Để được hưởng các lợi ích về thuế theo HĐTĐTHL, các nhà đầu tư Singapore là bên bán có thể niêm yết công ty mục tiêu trên sàn giao dịch chứng khoán chính thức ở Việt Nam hoặc tại Singapore.  Tùy chọn này chưa được kiểm chứng, nhưng có thể đáng để thử nghiệm nếu giao dịch có thể mang lại lợi ích thuế đáng kể.

Thủ tục và giấy tờ cần thiết để nhà đầu tư nước ngoài được hưởng miễn/giảm thuế  theo HĐTĐTHL: Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân được hưởng lợi ích về thuế theo HĐTĐTHL  phải cung cấp cho đối tác Việt Nam các tài liệu sau trong vòng 15 ngày trước khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng vốn/hợp đồng mua bán cổ phần:

  • thông báo miễn thuế/giảm thuế (mẫu theo luật định);
  • bản gốc (hoặc bản sao có chứng thực) của giấy chứng nhận cư trú [8] do Cơ quan Thuế Vụ của Singapore cấp. Tài liệu này phải được hợp pháp hóa lãnh sự để có thể được sử dụng tại Việt Nam.
  • bản sao hộ chiếu ;
  • bản sao hợp đồng/thỏa thuận có liên quan [9] với các đối tác Việt Nam;
  • giấy ủy quyền (nếu cần).

Nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài được hưởng các lợi ích về thuế theo HĐTĐTHL  phải cung cấp cho các đối tác Việt Nam  các tài liệu sau:

  • thông báo miễn thuế/giảm thuế (mẫu theo luật định);
  • bản gốc (hoặc bản sao có chứng thực) của giấy chứng nhận cư trú do Cơ quan Thuế vụ của Singapore cấp. Tài liệu này phải được hợp pháp hóa để có thể được sử dụng tại Việt Nam.
  • bản sao hợp đồng/thỏa thuận có liên quan với đối tác Việt Nam;
  • giấy ủy quyền (nếu cần).

Đối tác Việt Nam có trách nhiệm nộp các tài liệu này cho cơ quan thuế. 

Kết luận: Tóm lại, một công ty Singapore thường được miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn (thu nhập về bản chất là thu nhập chuyển nhượng vốn, , nhưng không phải là  lợi nhuận doanh thu hoặc lãi thu nhập) khi bán cổ phần phổ thông của mình trong một công ty Singapore mà công ty này nắm giữ vốn trong một công ty Việt Nam nếu đáp ứng một số điều kiện nhất định. Nếu cũng với công ty đó (với tư cách là bên bán ) không đáp ứng các điều kiện theo luật định (ví dụ: nắm giữ ít hơn 20% tổng số cổ phần trong công ty Singapore hoặc nắm giữ cổ phần dưới hai năm), thì công ty đó phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại Singapore theo thuế suất 17%.  Nhưng dù sao thuế suất (17%) tại Singapore cũng thấp hơn mức thuế ở Việt Nam [20% (trong trường hợp nhà đầu tư tổ chức chuyển nhượng cổ phần của họ trong công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Nam hoặc trong một công ty cổ phần chưa niêm yết tại Việt Nam )]. Có một số trường hợp để các nhà đầu tư Singapore khai thác các lợi ích về thuế theo HĐTĐTHL, khi khoản đầu tư vào một công ty Việt Nam chưa niêm yết, công ty có “nhiều bất động sản”. Ví dụ: Bên bán là công ty Singapore có thể cấu trúc giao dịch theo hướng sao cho việc chuyển nhượng cổ phần hoặc vốn trong một công ty Singapore mà công ty này sở hữu cổ phần trong một công ty Việt Nam sẽ thực hiện ngoài Việt Nam. Ngoài ra, một công ty Việt Nam chưa niêm yết có thể được niêm yết tại Việt Nam hoặc Singapore để tận dụng lợi thế của việc miễn trừ thuế theo HĐTĐTHL  dành cho các công ty niêm yết. Mặc dù không có cơ sở pháp lý chắc chắn để cơ quan thuế Việt Nam thực thi thẩm quyền đối với giao dịch chuyển nhượng tại nước ngoài, nhưng các giao dịch chuyển nhượng gián tiếp ở nước ngoài liên quan đến người mua Việt Nam có thể bị cơ quan thuế Việt Nam kiểm tra.

 

[1] Hiệp định giữa Cộng hòa Singapore và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tránh đánh thuế hai lần, ký năm 1994, sửa đổi năm 2012.

[2] Mức thuế suất 20% lớn hơn mức thuế suất (17%) đang áp dụng theo luật pháp Singapore.

[3] Miễn trừ thuế không áp dụng cho các công ty Singapore kinh doanh nắm giữ và kinh doanh bất động sản đặt tại Singapore, mà cổ phiếu không được niêm yết tại Singapore hoặc nơi khác, hoặc các công ty hợp danh mà bản thân các bên hợp danh  là công ty.

[4] Chi tiết về vụ việc này có thể được tìm thấy tại Công văn số 1595/TCT-DNL của Tổng cục Thuế đề ngày 24/4/2015.

[5] Ngôn ngữ gốc của HĐTĐTHL (sửa đổi Điều 13, §4) quy định rằng thu nhập do một đối tượng cư trú [Singapore] thu được từ việc chuyển nhượng các cổ phần, không phải cổ phần của một công ty được niêm yết trên một thị trường  chứng khoán được công nhận tại Việt Nam hoặc Singapore hoặc của cả Việt Nam và Singapore], nhận được nhiều hơn 50% giá trị của công ty trực tiếp hoặc gián tiếp từ bất động sản nằm tại Việt Nam có thể bị đánh thuế tại Việt Nam.

[6] Thông tư 205/2013/TT-BTC ngày 24 tháng 12 năm 2013 của Bộ Tài chính (“Thông tư 205”).

[7] Khái niệm “bất động sản”, theo định nghĩa tại Bộ luật Dân sự Việt Nam, bao gồm (a) đất đai; (b) nhà ở và công trình gắn liền với đất; bao gồm các tài sản gắn liền với nhà ở và công trình xây dựng đó; (c) các tài sản khác gắn liền với đất; (d) các tài sản khác theo quy định của pháp luật.

[8] Công ty nước ngoài phải đáp ứng một số điều kiện để có được giấy chứng nhận cư trú thuế. Một công ty trên giấy đơn thuần, công ty thụ động sẽ không đủ điều kiện.

[9] Đối với việc mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam nhưng không có thỏa thuận, người nộp thuế có thể cung cấp chứng thực tài khoản của mình đã được xác minh bởi ngân hàng, công ty chứng khoán có liên quan.

 

Bản dịch tiếng Anh

Contact Us

Tel: (84-28) 3824-3026